Xu hướng Swap Forex

2023-08-15
Bản tóm tắt:

Khám phá những xu hướng mới nhất và các đặc điểm chính trong thị trường hoán đổi, đồng thời hiểu rõ tác động của chúng đến giao dịch hoán đổi và cách chúng định hình bối cảnh thị trường.

Những phát triển gần đây trong thị trường hoán đổi cho thấy các giao dịch hoán đổi đang thể hiện một loạt các đặc điểm độc đáo và xu hướng triển vọng. Dưới đây là một số đặc điểm chính và xu hướng phát triển của giao dịch hoán đổi.


1. Thành phần của những người tham gia trong thị trường hoán đổi đang chuyển từ người sử dụng cuối sang các tổ chức trung gian

Thị trường hoán đổi chủ yếu bao gồm hai nhóm tham gia: người sử dụng cuối và các tổ chức tài chính trung gian. Hai nhóm này sử dụng thị trường hoán đổi cho các mục đích khác nhau.


Người sử dụng cuối, bao gồm các ngân hàng, tập đoàn, các tổ chức tài chính và bảo hiểm, các tổ chức quốc tế, các cơ quan và các bộ phận chính phủ, sử dụng thị trường hoán đổi chủ yếu để:

Các tổ chức tài chính trung gian hoặc những người tham gia liên ngân hàng, mặt khác, sử dụng thị trường hoán đổi để tạo ra thu nhập từ phí hoặc lợi nhuận từ các cơ hội giao dịch. Điều này bao gồm các ngân hàng và công ty chứng khoán từ Hoa Kỳ, Nhật Bản, Vương quốc Anh và các quốc gia châu Âu khác. Đối với các ngân hàng thương mại và đầu tư, các giao dịch hoán đổi là một nguồn thu nhập ngoài bảng cân đối kế toán hấp dẫn.


Thực tế cho thấy, khối lượng giao dịch của người sử dụng cuối lớn hơn so với các tổ chức tài chính trung gian. Đến cuối năm 1988, trong tổng số số tiền gốc danh nghĩa là 10,102 tỷ đô la cho các hoán đổi lãi suất, số lượng hoán đổi của người sử dụng cuối là 6,689 tỷ đô la, trong khi số lượng hoán đổi giữa các ngân hàng thành viên của Hiệp hội Hoán đổi Quốc tế là 3,413 tỷ đô la.


Bước vào thập niên 1990, với sự suy giảm của các hoạt động sáp nhập và mua lại trong lĩnh vực doanh nghiệp, các giao dịch hoán đổi có đòn bẩy và hoán đổi liên quan đến sáp nhập giảm, dẫn đến tốc độ tăng trưởng nhu cầu hoán đổi của người sử dụng cuối giảm. Ngược lại, việc sử dụng hoán đổi của các tổ chức tài chính trung gian tăng lên. Đến cuối năm 1990, tỷ lệ giữa người sử dụng cuối và các tổ chức tài chính trung gian trong tổng số tiền gốc danh nghĩa còn lại của hoán đổi lãi suất lần lượt là 61% và 39%. Trong nửa đầu năm 1991, các hoán đổi liên ngân hàng mới được sắp xếp đạt 335,4 triệu đô la, chiếm 44% tổng số tiền gốc danh nghĩa mới được sắp xếp của các hoán đổi lãi suất.


2. Các nhà giao dịch hoán đổi ngày càng nhạy cảm hơn với rủi ro đối tác

Thị trường hoán đổi có tính chất kép. Một mặt, nó hoạt động như một thị trường bán buôn, nơi các giao dịch tuân theo các quy tắc được định sẵn và diễn ra trên màn hình. Khoảng một phần ba các hoán đổi lãi suất và một phần tư các hoán đổi tiền tệ là các giao dịch tương đối tiêu chuẩn. Mặt khác, các giao dịch hoán đổi diễn ra trên thị trường phi tập trung, với các đặc điểm thị trường bán lẻ hoặc theo ý định, yêu cầu sắp xếp riêng cho từng giao dịch.


Mặc dù điều này cung cấp sự linh hoạt cho các nhà giao dịch, nhưng nó thường dẫn đến sự mờ ám lớn hơn do các sắp xếp cá nhân hoặc động cơ của người sử dụng cuối, thêm vào đó là sự không chắc chắn đáng kể về các quy tắc quản lý giao dịch phi tập trung từ các cơ quan quốc gia khác nhau, dẫn đến rủi ro thị trường lớn. Vào tháng 1 năm 1991, Hạ viện Anh đã thông qua một luật khiến cho các cơ quan chính phủ, bao gồm các quan chức địa phương, tham gia vào các giao dịch hoán đổi và các hoạt động liên quan trở thành bất hợp pháp. Luật này đã gây ra tổn thất đáng kể cho nhiều ngân hàng tham gia vào các giao dịch hoán đổi.


Kể từ những năm 1990, do các cuộc khủng hoảng thông thường trong hệ thống ngân hàng phương Tây, nhiều ngân hàng phá sản và hạ cấp tín dụng, các bên tham gia hoán đổi đã phải đối mặt với rủi ro đối tác tăng cao. Phản ứng của thị trường đối với rủi ro đối tác gia tăng là việc rút ngắn thời hạn của các hoán đổi lãi suất mới được sắp xếp. Các hoán đổi dài hạn được sắp xếp bởi các tổ chức có xếp hạng tín dụng cao hơn.


Để giảm thiểu rủi ro tín dụng và rủi ro thanh toán trong các giao dịch hoán đổi, Hiệp hội Nhà giao dịch Hoán đổi Quốc tế đã đưa vào việc kiểm soát rủi ro tín dụng cho các thành viên trong thời gian tồn tại của các giao dịch trong bản sửa đổi "Thỏa thuận Hoán đổi Lãi suất và tiền tệ". Các thỏa thuận tiêu chuẩn sử dụng một loạt các điều khoản liên quan đến tuyên bố, thỏa thuận, vi phạm, chấm dứt, sự kiện bất hợp pháp, sự kiện thay đổi tín dụng và thay đổi vốn ngân hàng, xác định quyền và nghĩa vụ của cả hai bên liên quan đến tín dụng.


Đồng thời, để giảm thiểu rủi ro thanh toán cho các đối tác, thỏa thuận tiêu chuẩn quy định phương pháp bù trừ các khoản thanh toán trong "Thỏa thuận Chính". Vào ngày thanh toán giao dịch, các bên bù trừ thu nhập và chi tiêu từ tất cả các hoán đổi cùng loại tiền tệ với nhau, với bên có số tiền thanh toán lớn hơn trả khoản chênh lệch sau khi bù trừ.


"Thỏa thuận Hoán đổi Lãi suất và tiền tệ" là một tài liệu có giá trị pháp lý với các hạn chế nhất định đối với các giao dịch hoán đổi. Các bên tham gia thị trường sử dụng thỏa thuận này có thể giảm thiểu rủi ro tài chính và tín dụng trong các giao dịch hoán đổi thông qua các điều khoản quản lý rủi ro nói trên. Tuy nhiên, từ góc độ thị trường, do thiếu hệ thống kế toán thỏa thuận tiêu chuẩn và cơ chế công bố tài chính cho các công cụ phi tập trung, các nhà giao dịch, dù thận trọng hơn và tập trung vào tình hình tài chính của đối tác, vẫn gặp khó khăn trong việc tránh hiệu quả các tổn thất gây ra bởi rủi ro đối tác trong quá trình giao dịch.


3. Trong thành phần tiền tệ của các hoán đổi lãi suất và tiền tệ, tỷ lệ hoán đổi được định giá bằng đô la Mỹ và hoán đổi có sự tham gia của đô la Mỹ đã giảm đáng kể

Đến cuối năm 1988, số lượng hoán đổi lãi suất được định giá bằng đô la Mỹ đạt tổng cộng 728,2 tỷ đô la, chiếm 72% tổng số tiền gốc danh nghĩa còn lại trong cùng năm, trong khi các hoán đổi lãi suất được định giá bằng các loại tiền tệ khác chỉ chiếm 28%. Năm 1989, số lượng hoán đổi lãi suất được định giá bằng đô la Mỹ chiếm 66% tổng số tiền gốc danh nghĩa còn lại, với các hoán đổi lãi suất được định giá bằng các loại tiền tệ khác, bao gồm JPY, GBP và DEM, chiếm 34%.


Đến cuối năm 1990, các hoán đổi lãi suất được định giá bằng đô la Mỹ chỉ chiếm 55% tổng số tiền gốc danh nghĩa còn lại, trong khi số lượng hoán đổi lãi suất bằng các loại tiền tệ khác đạt 45%. Trong số này, các hoán đổi lãi suất được định giá bằng CHF, GBP và CAD có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất.


Đến cuối năm 1991, các hoán đổi lãi suất được định giá bằng đô la Mỹ và các hoán đổi lãi suất được định giá bằng các loại tiền tệ không phải đô la Mỹ lần lượt chiếm 49% và 51% tổng số tiền gốc danh nghĩa còn lại. Vị thế thống trị của các hoán đổi lãi suất được định giá bằng đô la Mỹ đã đảo ngược. Trong số này, các mức tăng đáng kể đã được quan sát trong các hoán đổi lãi suất.


Lưu ý: Đầu tư liên quan đến rủi ro. Nội dung của bài viết này không phải là lời khuyên đầu tư và không cấu thành lời đề nghị hoặc lời mời hoặc giới thiệu cho bất kỳ sản phẩm đầu tư nào.

Ý nghĩa và ý nghĩa của khoảng cách kéo M1 M2

Ý nghĩa và ý nghĩa của khoảng cách kéo M1 M2

Khoảng cách cắt kéo M1 M2 đo lường sự khác biệt về tốc độ tăng trưởng giữa nguồn cung tiền M1 và M2, làm nổi bật sự chênh lệch về thanh khoản kinh tế.

2024-12-20
Phương pháp giao dịch Dinapoli và ứng dụng của nó

Phương pháp giao dịch Dinapoli và ứng dụng của nó

Phương pháp giao dịch Dinapoli là chiến lược kết hợp các chỉ báo dẫn đầu và chỉ báo trễ để xác định xu hướng và các mức quan trọng.

2024-12-19
Cơ sở và hình thức của Giả thuyết thị trường hiệu quả

Cơ sở và hình thức của Giả thuyết thị trường hiệu quả

Giả thuyết thị trường hiệu quả nêu rằng thị trường tài chính kết hợp tất cả thông tin vào giá tài sản, do đó khả năng vượt trội hơn thị trường là không thể.

2024-12-19