Ngân hàng trung ương là tổ chức cốt lõi của hệ thống tiền tệ quốc gia, có chức năng xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ, quản lý phát hành tiền, giám sát hệ thống ngân hàng và duy trì ổn định tài chính. Vai trò của nó là duy trì sự ổn định tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong cuộc sống hàng ngày của người dân, mối quan hệ với ngân hàng không hề chặt chẽ. Nhưng mọi người chỉ biết đến những ngân hàng thông thường, đối với Ngân hàng Trung Ương, ông chủ các ngân hàng quốc gia, về cơ bản họ chỉ nghe đến cái tên mà không hề biết đến vai trò của nó. Trên thực tế, mặc dù nó hiếm khi xuất hiện trong cuộc sống của chúng ta. Tuy nhiên, sự tồn tại của nó có quan hệ mật thiết với tình hình kinh tế tài chính của đất nước cũng như với túi tiền của người dân, tầm quan trọng của nó có thể tưởng tượng được. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu xem: Vai trò của ngân hàng trung ương là gì?
Ngân hàng trung ương là gì?
Nó còn được gọi là ngân hàng của đất nước và là một trong những tổ chức quản lý tài chính cao nhất của đất nước. Đây là một tổ chức chính thức được thành lập và quản lý bởi chính phủ của một quốc gia hoặc khu vực tiền tệ và là tổ chức cốt lõi của hệ thống tiền tệ của một quốc gia, chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ, quản lý phát hành tiền tệ, giám sát hệ thống ngân hàng và duy trì sự ổn định tài chính. .
Cơ cấu tổ chức và địa vị pháp lý của nó khác nhau tùy theo từng quốc gia, nhưng nó thường độc lập để đảm bảo rằng nó có thể thực hiện các trách nhiệm về chính sách tiền tệ và ổn định tài chính mà không bị can thiệp quá mức từ áp lực chính trị. Tính độc lập của nó giúp đảm bảo rằng nó có thể xây dựng và thực hiện các chính sách tiền tệ dài hạn và vì lợi ích kinh tế chung của đất nước.
Tên và cơ cấu tổ chức của ngân hàng trung ương có thể khác nhau tùy theo từng quốc gia, ví dụ: Hệ thống Dự trữ Liên bang (FRS) ở Mỹ, Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB) ở Khu vực đồng tiền chung châu Âu, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) ở Trung Quốc , và như thế. Nhìn chung, nó là một thành phần quan trọng của hệ thống tiền tệ của một quốc gia và chịu trách nhiệm duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính tiền tệ nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Những lý do cho sự ra đời của nó chủ yếu liên quan đến nhu cầu của hệ thống tài chính tiền tệ và sự phát triển của nền kinh tế. Khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về chính sách tiền tệ ngày càng tăng. Ngân hàng trung ương được thành lập để có một thể chế có thể xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm duy trì sự ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Trong lịch sử, khi số lượng ngân hàng thương mại tăng lên và loại hình kinh doanh trở nên đa dạng hơn, các vấn đề như cạnh tranh và nợ giữa các ngân hàng ngày càng trở nên nổi bật. Để giải quyết những vấn đề này và ổn định trật tự của thị trường tài chính, cần có một tổ chức chuyên biệt để điều tiết và điều phối, và ngân hàng trung ương đã ra đời như vậy.
Riksbank, được thành lập ở Thụy Điển vào năm 1656, là nguyên mẫu của ngân hàng trung ương hiện đại. Đến năm 1844, Ngân hàng Anh được độc quyền phát hành tiền tệ, trở thành ngân hàng trung ương đầu tiên theo đúng nghĩa của từ này. Sau đó, ngày càng có nhiều quốc gia thành lập ngân hàng trung ương để quản lý thị trường tài chính và tham gia vào một loạt các quy định kinh tế vĩ mô. Được thành lập ngày hôm nay, nó đại diện cho ý chí của các tổ chức quản lý tài chính cao nhất của đất nước.
Đến nay, nó đã trở thành đơn vị dẫn đầu ngành tài chính ở mỗi quốc gia, là ngân hàng trung ương của hầu hết các quốc gia, đảm nhận việc thực hiện chính sách tài chính quốc gia, đại lý phát hành và quản lý tiền tệ, giám sát kho bạc, quản lý ngành tài chính, thành lập Cơ quan quản lý và phát hành tiền tệ. hệ thống thanh toán và thanh toán bù trừ quốc gia, tham gia các hoạt động tài chính quốc tế nước ngoài và các chức năng quan trọng khác.
Nhìn chung, ngân hàng trung ương của mỗi quốc gia, thông qua hàng loạt các phương tiện trực tiếp hoặc gián tiếp, thực hiện việc điều tiết cung cầu tiền tệ và đời sống kinh tế - xã hội và có ảnh hưởng sâu sắc đến tương lai, vận mệnh của đất nước.
Ngân hàng trung ương | Quốc gia/khu vực |
Hệ thống dự trữ liên bang | Hoa Kỳ |
Ngân hàng trung ương châu Âu | Khu vực đồng euro |
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc | Trung Quốc |
Ngân hàng Nhật Bản | Nhật Bản |
Ngân hàng của nước Anh | Vương quốc Anh |
Deutsche Bundesbank | nước Đức |
Ngân hàng dự trữ của Ấn Độ | Ấn Độ |
Ngân hàng Canada | Canada |
Ngân hàng Dự trữ Úc | Châu Úc |
Ngân hàng Trung ương Brazil | Brazil |
Chức năng của Ngân hàng trung ương
Nó thường có một số chức năng quan trọng trong một quốc gia hoặc khu vực tiền tệ, với vai trò chính là duy trì sự ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính.
Khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu về chính sách tiền tệ ngày càng tăng. Ban đầu nó được thành lập để xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm duy trì ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Về cơ bản, nó thực hiện điều này bằng cách điều chỉnh lãi suất, cung tiền và các phương tiện khác. Và là tổ chức duy nhất được trao quyền phát hành tiền hợp pháp của đất nước, nó quản lý và kiểm soát nguồn cung tiền để đảm bảo sự ổn định, cũng như điều chỉnh nó để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế khi được yêu cầu.
Nó cũng chịu trách nhiệm quản lý dự trữ ngoại hối của đất nước nhằm duy trì cán cân thanh toán và ổn định tỷ giá hối đoái. Điều này bao gồm thực hiện các giao dịch trên thị trường ngoại hối và quản lý đầu tư dự trữ ngoại hối của đất nước, điều cần thiết để duy trì sự ổn định và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế đất nước. Nó cũng chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện các chính sách điều tiết tài chính để duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính. Điều này được thực hiện bằng cách điều tiết thị trường tài chính, ngân hàng và các tổ chức tài chính khác để đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính và ngăn ngừa và giải quyết các cuộc khủng hoảng tài chính.
Nó cũng chịu trách nhiệm quản lý hệ thống thanh toán của đất nước để đảm bảo rằng các khoản thanh toán và quyết toán được thực hiện hiệu quả, an toàn và suôn sẻ. Điều này rất quan trọng để tạo thuận lợi cho việc thực hiện suôn sẻ các giao dịch và trao đổi trong nền kinh tế. Và tiến hành nghiên cứu và thống kê kinh tế để hỗ trợ xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ, cũng như cung cấp thông tin về tình trạng của nền kinh tế cho các cơ quan chính phủ khác, người tham gia thị trường và công chúng. Ngoài ra còn có sự hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế, đặc biệt là về các vấn đề tài chính xuyên biên giới, phối hợp chính sách tiền tệ...
Ngoài ra, các ngân hàng trung ương còn có chức năng chính phủ ở các quốc gia tương ứng. Ví dụ, ngân hàng trung ương Trung Quốc, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, được Bộ Tài chính ủy thác làm người giám sát và đại lý tài chính cho các quỹ công của chính phủ trung ương và quản lý việc thu hồi kho bạc và kinh doanh trái phiếu của chính phủ trung ương.
Thứ nhất, với tư cách là người giám sát quỹ công của chính phủ trung ương, công chúng có thể tự do lựa chọn mở tài khoản tiền gửi tại một tổ chức tài chính. Tuy nhiên, tài khoản tiền gửi của Chính phủ trung ương do Bộ Tài chính mở theo quy định của pháp luật và được gọi là Tài khoản tiền gửi Kho bạc tại Ngân hàng Trung ương. Các khoản thu và chi của các cơ quan chính phủ trung ương, bao gồm ngân sách hàng năm, ngân sách đặc biệt và các khoản thu và chi khác như vay hoặc trả nợ của chính phủ, được chuyển qua Tài khoản tiền gửi kho bạc. Trừ khi có quy định đặc biệt, tất cả đều được quản lý và thu hồi thông qua Tài khoản Tiền gửi Kho bạc.
Ngân hàng trung ương quản lý Tài khoản tiền gửi Kho bạc, theo dõi động thái quỹ của Kho bạc và xử lý các khoản thu và chi của Kho bạc thông qua hệ thống ngân hàng của Kho bạc. Trong những năm gần đây, các ngân hàng trung ương tiếp tục đẩy mạnh hoạt động kho bạc điện tử, thiết lập cơ chế giải ngân kho bạc trực tuyến cũng như mạng lưới chuyển tiền, thanh toán di động và các kênh thanh toán đa dạng khác nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kho bạc và tăng sự tiện lợi trong thanh toán.
Ngoài ra, ngân hàng trung ương còn đóng vai trò là đại lý tài chính của chính phủ trung ương. Để đáp ứng nhu cầu phát hành trái phiếu để huy động vốn của chính phủ trung ương, nó xử lý việc đấu thầu trái phiếu chính phủ trung ương. Các đơn vị đấu thầu tham gia đấu thầu thông qua đường dẫn máy tính, kết quả đấu thầu được công bố ngay lập tức, tạo thuận lợi cho giao dịch trên thị trường trái phiếu.
Hiện nay, trái phiếu chính phủ trung ương được phát hành dưới dạng đăng ký và không còn được in dưới dạng vật chất nữa. Việc đăng ký, chuyển nhượng và hoàn trả mọi quyền liên quan đến việc phát hành trái phiếu và các giao dịch khác nhau đều được xử lý thông qua kết nối có hệ thống giữa Ngân hàng Trung ương và ngân hàng thanh toán bù trừ được ủy quyền, vừa an toàn vừa hiệu quả.
Nói tóm lại, Ngân hàng Trung Ương đóng vai trò là người quản lý quỹ công của chính phủ trung ương và cung cấp cho chính phủ các dịch vụ Kho bạc toàn diện và thuận tiện. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc lập kế hoạch sử dụng quỹ kho bạc của chính phủ, duy trì sự an toàn của quỹ kho bạc và nâng cao hiệu quả quản lý tài chính của chính phủ. Mặt khác, nó đóng vai trò là cơ quan tài chính của chính phủ trung ương, cần đảm bảo rằng chính phủ trung ương phát hành trái phiếu một cách suôn sẻ, huy động vốn, trả gốc và lãi trái phiếu theo đúng kế hoạch để củng cố nợ của chính phủ và duy trì mức nợ của chính phủ. vận hành thông suốt hoạt động bù trừ, thanh toán trái phiếu trung ương nhằm thúc đẩy thị trường trái phiếu phát triển tích cực.
Ba công cụ của Ngân hàng trung ương để kiểm soát cung tiền
Ngân hàng trung ương kiểm soát nguồn cung tiền bằng cách sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ khác nhau để đạt được các mục tiêu chính sách tiền tệ của mình.
Đầu tiên là lãi suất chính sách, nó ảnh hưởng đến mức lãi suất thị trường bằng cách điều chỉnh lãi suất chính sách. Nói chung, ngân hàng trung ương hướng dẫn mức lãi suất của toàn bộ thị trường tiền tệ bằng cách thay đổi lãi suất qua đêm hoặc các lãi suất chuẩn khác. Khi tăng lãi suất chính sách, chi phí đi vay của các ngân hàng thương mại tăng lên, điều này có thể dẫn đến cầu vay giảm và do đó làm chậm tốc độ tăng trưởng của cung tiền. Ngược lại, việc giảm lãi suất chính sách có thể kích thích hoạt động vay mượn và mở rộng cung tiền.
Thứ hai là hoạt động thị trường mở, bao gồm việc điều chỉnh mức dự trữ trong hệ thống ngân hàng bằng cách mua và bán các tài sản tài chính như trái phiếu chính phủ trên thị trường mở. Khi ngân hàng trung ương mua trái phiếu, nó sẽ bơm tiền vào các ngân hàng, tăng dự trữ và thúc đẩy họ tăng cho vay. Ngược lại, khi ngân hàng trung ương bán trái phiếu, nó sẽ thu hồi vốn và giảm dự trữ, điều này có thể khiến các ngân hàng giảm cho vay. Việc điều chỉnh mức dự trữ này thông qua nghiệp vụ thị trường mở có thể có tác động trực tiếp đến khả năng và sự sẵn sàng cho vay của các ngân hàng.
Công cụ thứ ba là yêu cầu dự trữ bắt buộc, cho phép các ngân hàng tác động đến khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại bằng cách điều chỉnh yêu cầu dự trữ bắt buộc của họ. Dự trữ là một phần tiền mà các ngân hàng thương mại phải gửi tại ngân hàng trung ương để đảm bảo thanh toán được thanh toán và duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính. Bằng cách tăng hoặc giảm yêu cầu dự trữ bắt buộc, ngân hàng trung ương có thể ảnh hưởng trực tiếp đến lượng tiền sẵn có để các ngân hàng thương mại cho vay. Việc tăng yêu cầu dự trữ bắt buộc có thể hạn chế khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại, trong khi việc giảm yêu cầu dự trữ bắt buộc có thể giúp mở rộng cho vay.
Cả ba công cụ này đều được ngân hàng trung ương sử dụng để đạt được các mục tiêu chính sách tiền tệ của mình, về cơ bản là duy trì mục tiêu lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, duy trì ổn định tài chính, v.v.
Hoạt động trách nhiệm của Ngân hàng Trung Ương
Hoạt động trách nhiệm của Ngân hàng Trung Ương bao gồm các khoản nợ và gánh nặng mà Ngân hàng Trung Ương đảm nhận, bao gồm tiền tệ mà ngân hàng phát hành, tiền gửi của các ngân hàng thương mại và các công cụ nợ do Ngân hàng Trung Ương cung cấp cho các tổ chức tài chính.
Các Ngân hàng Trung Ương thường nắm giữ dự trữ quốc tế, bao gồm ngoại hối và vàng. Những khoản dự trữ quốc tế này là tài sản cũng như trách nhiệm pháp lý của Ngân hàng Trung Ương. Các khoản dự trữ này dưới dạng ngoại tệ và các tài sản ngoại hối khác, được sử dụng để duy trì cán cân thanh toán quốc tế và ổn định tỷ giá hối đoái mà ngân hàng trung ương cần quản lý và có một số trách nhiệm nhất định.
Ngân hàng Trung Ương có thể tham gia vào các mối quan hệ tiền gửi với ngân hàng trung ương ở các quốc gia hoặc khu vực khác và những khoản tiền gửi này cũng cấu thành nghĩa vụ nợ của ngân hàng trung ương, thường liên quan đến việc điều chỉnh thanh khoản và chính sách tiền tệ.
Đồng thời, Ngân hàng Trung Ương có thể phát hành các công cụ nợ ngắn hạn như tín phiếu Ngân hàng Trung Ương để điều chỉnh tính thanh khoản trên thị trường. Những trái phiếu này thường được phát hành để thực hiện chính sách tiền tệ và quản lý thanh khoản thông qua các công cụ vay ngắn hạn khác, chẳng hạn như hoạt động repo ngược vào thị trường tài chính.
Vai trò của hoạt động nợ phải trả của Ngân hàng Trung Ương, gắn liền với việc phát hành tiền tệ và hoạt động của hệ thống tài chính, là thông qua việc quản lý các khoản nợ này, ngân hàng trung ương có thể tác động đến nguồn cung tiền, lãi suất thị trường và sự ổn định của thị trường. của hệ thống tài chính.
Tài sản | Nợ phải trả |
Dự trữ quốc tế | Tiền mặt đang lưu hành |
Các khoản cho vay và tiền gửi | Tiền trong tài khoản tại ngân hàng trung ương |
Đầu tư vào Chứng khoán | Chứng khoán phát hành |
Các tài sản khác | Cam kết với IMF |
Những khoản nợ khác | |
Thủ đô |